Pages

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2009

Phan Châu Trinh - "Nam quốc dân quyền tiên tổ chức"




Chủ nhật, ngày 16 tháng tám năm 2009

Phan Châu Trinh - "Nam quốc dân quyền tiên tổ chức"







Đám tang Phan Châu Trinh





Lời người viết: Bài này viết khi chỉ còn 2 tuần nữa là sinh bé Kẹo. Bụng nặng nề, ậm ịch. Tháng 12/2008 trời rét căm căm, nhưng đọc xong một xấp tư liệu về ông mà người bừng bừng khí thế. Bài này đăng cho Tinh Hoa tháng 12, chuyên đề "Biểu tượng Việt Nam". Vì không nhờ được nhà sử học nào viết ngắn gọn và dễ đọc (đối với độc giả) về PCT nên cuối cùng bắt tay vào tự tổng hợp và viết thành bài này. Cũng nhọc công chẳng kém gì bài viết chân dung!

(Ghi chú: Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong câu đối viếng Phan Châu Trinh đã tôn vinh cụ Phan là “Nam quốc dân quyền tiên tổ chức”, người tổ chức dân quyền đầu tiên ở nước Nam).

1. Đám tang “big bang của tinh thần yêu nước”

6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926, đất trời còn xám xịt. Không khí nặng nề như thể sắp xảy ra một vụ nổ bất ngờ. Dân chúng Sài Gòn bỗng dưng đổ ra đường, kéo dài trên 2 cây số cùng vô vàn biểu ngữ yêu nước. Người người đi sát sạt nhau như bầy kiến, có lẽ phải tới hơn một phần ba dân số Sài Gòn lúc bấy giờ là 300 000 người. Một đám tang kỳ lạ và hùng vĩ để tưởng nhớ người chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, diễn ra ngay trong lòng chế độ thực dân Pháp. “Sự kiện to lớn chưa từng xảy ra trong lịch sử Annam” – chữ dùng của Nguyễn Ái Quốc đã báo hiệu sự đổ vỡ của chế độ thực dân bao phủ Việt Nam suốt một trăm năm đô hộ. Hơn nữa, cuộc truy điệu tự bản thân đã tạo thành một cú nhấn nút thức tỉnh tinh thần yêu nước, trực tiếp hoặc gián tiếp, để rồi từ đó lên đường theo con đường cách mạng.
Sau ngày Phan Châu Trinh mất, Phan Bội Châu, mặc dù đã bị Phan Châu Trinh kịch liệt bác bỏ công kích cũng đã tự kiểm rất chân thành và ca ngợi: “Ông Phan ta ra đời nghiên cứu học thuyết ông Lư Thoa, phát minh ra lời ông Mạnh Đức, đem hai chữ dân quyền hò hét trong nước như một tiếng sấm vang làm cho bao nhiêu giấc mơ phải dậy, mà dân tộc ta từ nay mới biết mình có quyền. Quyền dân cao hơn thì quyền vua sụt xuống. Nay ông đã qua đời rồi mà cái chủ nghĩa của ông ngày càng sáng chói. Hết cả đồng bào trong nước từ đứa trẻ con cũng cúng lạy ông, khấn vái ông. Vậy là cái nghĩa dân quyền dạy bảo con người đã đi sâu vào trong óc rồi đó”.
Phan Châu Trinh là ai? Vì sao đám tang của ông cho đến tận hơn 80 năm sau vẫn là một sự kiện chưa từng xảy ra trong dòng chảy vô tận của lịch sử Việt Nam? Vì sao cho đến ngày nay những thuyết triết của ông vẫn còn nguyên giá trị? Vì sao ở thời đại “toàn cầu hóa”, những đau đáu về “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của ông năm xưa vẫn còn nguyên vẹn? Vì sao những lời nhắc nhở của ông vẫn là vô cùng cấp thiết và khẩn cấp với toàn tri thức Việt?
Các nhà sử học, dù thuộc trường bất kỳ trường phái nào, cũng không thể phủ nhận, Phan Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận định: Những vấn đề cơ bản nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh đã thống nhất nêu lên từ đầu thế kỷ XX, trong đó trung tâm là vấn đề dân trí thì đến nay vẫn còn nguyên đấy. Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta ngày hôm nay: nhiệm vụ xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được nâng cao.
Học giả Hoàng Xuân Hãn, mấy mươi năm sau gọi đám tang của Phan Châu Trinh là “một big bang của tinh thần yêu nước”. Một đám tang có tính chất tự phát, không do chức quyền đứng ra tổ chức, làm cho bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng phải suy nghĩ. Đó là đám tang của con người có “khuôn mặt được coi là sáng giá nhất Việt Nam” đầu thế kỷ XX.
2. Kẻ lữ hành cô đơn của thời đại
Phan Châu Trinh là “nhà cách mạng đầu tiên ở Việt Nam”. Nhà cách mạng ở đây không chỉ là người chống ngoại xâm, mà còn là người muốn làm thay đổi xã hội, thay đổi một cách căn bản. Phan Châu Trinh đã đi Nhật trên chiếc tàu biển, giả làm một người thợ đốt lò, để tận mắt quan sát công cuộc Duy Tân của Nhật Bản. Chuyến đi thử nghiệm đã đưa ông tới hai kết luận lớn. Thứ nhất, “xem dân trí nước Nhật rồi đem dân trí ta so sánh thật không khác gì đem con gà độ với con chim cắt già…Trình độ quốc dân Nhật như thế, trình độ quốc dân ta như thế, không nô lệ làm sao được”. Kết luận thứ hai, qua những tranh luận thẳng thắn và quyết liệt với Phan Bội Châu: Nhật Bản nhất định sẽ trở thành đế quốc.
Nước Nhật, cùng xuất phát điểm như Việt Nam với quyền hành tối cao thuộc về Nhật hoàng, nhưng quyền lực thực tế lại thuộc về về Mạc phủ Tokugawa. 200 năm thời kỳ “bế quan tỏa cảng” của chế độ Mạc phủ có nhiều điểm tương đồng với sự đóng cửa bảo thủ của chế độ phong kiến Trung Quốc và Việt Nam. Nhật Bản trước khi “mở cửa” vẫn là một nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Khi ấy, dưới áp lực của phương Tây, mà đầu tiên là Hoa Kỳ, Nhật Bản đứng trước 2 lựa chọn: 1. Tiếp tục duy trì chế độ phong kiến lạc hậu để thế lực thống trị (Mạc phủ) giữ được quyền lực càng lâu càng tốt với nguy cơ trở thành một nước thuộc địa. 2. Đi theo con đường cải cách đất nước với cơ hội trở thành một cường quốc như các nước phương Tây.

Và lịch sử đã chọn Nhật Bản, hay đúng hơn chính những nhà tư tưởng cấp tiến Nhật Bản đã chọn cho mình số phận thoát ra khỏi nước thuộc địa, trở thành nước tư bản chủ nghĩa đầu tiên của châu Á. Thời kỳ Minh Trị bắt đầu năm 1868, bắt đầu từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây. Chính phủ mới bãi bỏ hệ thống lãnh địa, tuyên bố “Tứ dân bình đẳng” (sĩ, nông, công, thương không còn bị phân biệt). Chính phủ còn tuyên bố quyền tự do buôn bán. Về giáo dục, có nhiều cải cách quan trọng, đặc biệt là chế độ cất nhắc cán bộ theo trình độ (tân học), không chọn lựa con nhà quý tộc làm quan như trước. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật, những học sinh giỏi được cử sang Tây du học.

Cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân đã mở đường cho Nhật Bản thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa, kéo theo sự phát triển khiến Nhật Bản vươn vai trở thành người khổng lồ cho đến tận ngày nay.

Năm 1872, bốn năm sau thời kỳ Minh Trị bắt đầu, tại Việt Nam, nhà dân chủ đầu tiên đã ra đời tại làng Tây Lộc, một làng nhỏ nằm sâu trong một hóc núi lấn khuất ngày ấy thuộc huyện miền núi Tiên Phước, nay đã chuyển sang huyện Tam Kì, tỉnh Quảng Nam. Nhưng khác với những chí sĩ cách tân Nhật Bản, nhà dân chủ ấy, Phan Châu Trinh luôn là kẻ lữ hành cô đơn, ngay cả trăm năm sau khi thời đại của ông đã sang trang.

Nhưng ông không phải là kẻ đốt đền Herostratus, cho dù ông – “người Quảng Nam hay cãi” - đã quyết cãi lại toàn bộ giới sĩ phu thông thái nhất thời đại ông. Phan Châu Trinh một mình khẳng định chân lý mới. Ông không phỉ báng thần thánh, không quay ngoắt với những giá trị tinh túy của dân tộc. Ông chỉ chỉ trích những hủ lậu của xã hội phong kiến nghìn năm, cũng như cái lạc hậu mà dân tộc ta đang sống trong một ốc đảo rất xa xôi tách biệt với đại dương tri thức nhân loại. Phan Chu Trinh kiên quyết và súc tích: “Chi bằng học!”
Cần biết rằng thời đại của Phan Châu Trinh là những năm tháng đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Bi kịch yêu nước trở nên túng quẫn từ sự thất bại của phong trào Cần Vương. Sự đổ máu anh hùng nhưng vô nghĩa vì bế tắc, luẩn quẩn trong tầm nhìn cũ. Cũng chính thân phụ của Phan Châu Trinh đã chết thê thảm trong khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu năm ông 16 tuổi (trước đó năm 10 tuổi, mẹ ông mất). “Đêm tối thực sự là đêm tối, không một tờ báo nào, không ai hiểu bây giờ trên thế giới đang diễn ra những gì” (Hồ Chí Minh).
Nhà Nguyễn xây dựng một chế độ phong kiến chuyên chế cao độ, tư tưởng chính thống là tư tưởng Tống nho, một thứ “Nho giáo mang tính giáo điều, nó tạo nên một tầng lớp nhà Nho bảo thủ, tự mãn, thủ cựu chống lại mọi các mới về chính trị kinh tế” (Phan Ngọc).
Khi những người thức thời như Nguyễn Trường Tộ khuyên vua Tự Đức dạo qua bên Tây xem văn minh người ta để học hỏi, thì nhà vua trả lời: Nhật nó là dòng mọi, Xiêm (Thái Lan) là dòng mọi, mọi thì nó học với mọi được. Chúng ta là con thần cháu thánh lẽ nào ta đi học mọi hay sao?
.3. Phong trào Duy Tân – cuộc vận động cải cách giáo dục vĩ đại
Nhưng đúng là chúng ta phải học “mọi”. Trước khi sang Nhật Bản để biết tại sao nước này hùng mạnh nhờ phong trào Minh Trị Duy Tân, Phan Châu Trinh đã cùng hai người bạn thân là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, đều ở độ tuổi “tam thập nhi lập”, đã tìm đến ánh sáng của tri thức qua tân thư.
Đó là những cuốn sách kinh điển của các nhà các mạng tư sản dân quyền Pháp như Rousseau, Montesquieu, của những nhà Duy Tân Trung Quốc Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, sách về công cuộc Duy Tân của Minh Trị ở Nhật. Phan Châu Trinh đã bừng tỉnh để hiểu ra rằng: Nguyên nhân mất nước không phải ở đâu khác mà là ở trong văn hóa, trong “những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội Việt Nam”.
Thời đại đã thay đổi. Đối thủ của chúng ta cũng đã thay đổi. Chúng ta đang thua kém, so với phương Tây. Thua một cách tất yếu, vì chúng ta thấp hơn họ cả một thời đại.Sau chuyến đi Nhật, học thuyết cứu nước của Phan Châu Trinh đã dứt khoát hình thành. Ông từ giã Phan Bội Châu, lập nên “bộ ba Quảng Nam” khởi xướng phong trào Duy Tân. Từ Quảng Nam, phong trào nhanh chóng loan ra khắp Trung Kì, rồi cả nước, chấn động cả chính quốc Pháp.Phong trào Duy Tân thực hiện nhiều công việc trong đó có lập hội buôn, lập trường tiểu học phổ thông ở nông thôn, lập hội tân học, hội diễn thuyết, hội trồng cây, tổ chức các thương hội, thương cuộc, các hợp thương, quốc thương các công ty ở Phong Thử, Hội An, Huế, Nghệ An, Phan Thiết…
Về cách sống, phong trào Duy Tân đề xướng việc cắt tóc ngắn, mặc âu phục, bài trừ hủ tục. Thực chất của những việc này là “bỏ cái ngu này, bỏ cái dại này, cho khôn cho mạnh”. Cắt tóc là Duy Tân là thể hiện tinh thần chống phong kiến Nam triều, học theo người Tây để chống Tây, được dân chúng phản ứng nhiệt liệt. Thực dân và triều đình nhà Nguyễn gọi những người nổi dậy ở Quảng Ninh là “giặc cắt tóc”. Rõ ràng, cắt tóc là cách mạng. Vua Thành Thái khi ấy thường cải trang vi hành, nghe và ảnh hưởng phong trào Duy Tân, cắt bỏ cục tóc trên đầu. Sau này toàn quyền Beau kết tội vua bị bệnh tâm thần và phế đế, lập Duy Tân (Vĩnh San) lên ngôi (sinh 1900- mất 1945).
Các hoạt động trên, nếu đem so sánh với thời đại bây giờ thì không có gì là to tát. Nhưng đằng sau những hội tưởng như “vô thưởng vô phạt” “tầm thường”, là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện của thế kỷ XX. Đó là cuộc cách mạng đổi mới cách sống, khai thông dân trí. Chính xác hơn, đó là những tư tưởng đầu tiên về một xã hội dân chủ, mà thực chất rất gần gũi với nền chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến nhất của thế kỷ XXI này. Phong trào nổ ra năm 1906, và chỉ hai năm sau, 1908 đã cho thấy sức mạnh của nó bằng sự kiện long trời lở đất “Trung Kì dân biến” 1908.
Nhìn lại phong trào Duy Tân, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Không có một tổ chức đảng hay mưu đồ khởi nghĩa nào hết. Chỉ có một cuộc khai hóa rộng lớn và sâu sắc, bằng một công cuộc gieo rắc vào quảng đại quần chúng những kiến thức và tư tưởng mới, làm cho cái quần chúng đang sống trong cõi tối tăm mịt mùng ấy biết rằng có một thế giới mênh mông bao quanh mình, cái mà ngày nay ta gọi là một cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra, đang sống trong thế giới ấy, mình phải và có thể vươn tới, hòa nhập vào cái thế giới ấy, cái thế giới trong đó mỗi con người đều có những quyền của mình, mình phải và có thể đang không được hưởng. Phan Châu Trinh là người có lòng tin khổng lồ vào sức mạnh tri thức…Trao sự hiểu biết cho dân, có thể nói đó là tất cả nội dung chủ yếu của phong trào Duy Tân Phan Châu Trinh.
Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, ban đầu người Pháp mừng rỡ vì cứ ngỡ là “học Tây, thân Tây”, càng dễ cai trị. Nhưng không ngờ phong trào Duy Tân gây ảnh hưởng sâu rộng, đụng vào thực chất quyền lợi của người dân, đã khiến người Pháp rất lo ngại và phải tự cảnh tỉnh: Phan Châu Trinh không tỏ ra bạo động như Phan Bội Châu nhưng nguy hiểm hơn cho sự thống trị của người Pháp tại Việt Nam (Louis Bonhoure, Toàn quyền Đông Dương nhận xét).
Sử sách thế giới ca tụng Mohandas Karamchand Gandhi (1867-1948) đấu tranh bất bạo động với người Anh dành độc lập cho Ấn Độ, nhưng nhà cách mạng Phan Châu Trinh của Việt Nam thời ấy đã đấu tranh giành độc lập với tư tưởng bất bạo động với thực dân Pháp trước cả Gandhi. Ông nói: “Không nên trông người ngoài là ngu, không nên bạo động, bạo động là chết. Tôi chỉ có một lời để nói với đồng bào, không gì bằng việc học…Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể làm”.

4. Thay lời kết

Với tất cả sự thật khắc nghiệt của Lịch sử, 100 năm qua chúng ta vẫn tiếp tục “cuộc cách mạng tân văn hóa” còn để dang dở từ con người ấy.Trong cảnh đêm đen tối thực sự là đen tối (Hồ Chí Minh), Phan Châu Trinh xướng minh nhân quyền, đả phá chuyên chế, bài xích hủ nho, nói những điều chưa ai nói, làm những việc chưa ai làm, sự thức tỉnh ấy là thực sự cần thiết.

Còn nhà sử học Daniel Héméry, một người nghiên cứu khá sâu về Việt Nam (và khá sâu về chủ tịch Hồ Chí Minh) đã viết: “Khuôn mặt vĩ đại của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch sử văn hóa và chính trị Việt Nam ở thế kỷ XX, bởi chính ông đã xác định một cách rành mạch, sáng rõ nhất những nan đề đặt ra lâu dài mà các thế hệ người Việt Nam sẽ phải – và mãi mãi còn phải – đảm nhận.
Thực tế lịch sử không bao giờ đi đúng nguyên con đường những người định dẫn dắt nó đã đề ra. Lịch sử đã diễn ra như thực tế đã diễn diễn ra. Nhớ câu “Chớ đem thành bại luận anh hùng”, xin được trích dẫn ý của TS. Thu Trang, khi bà nhắc lại lời của triết gia Nietzsche khi viết về Phan Châu Trinh: “Có vô vàn sự việc mà nhân loại đã thu đạt được trong bao thời kỳ trước, nhưng với một vẻ rất nhỏ, rất yếu tựa như còn trong trứng, nên người ta không trông thấy được sự thành hình. Nhưng với thời gian, có khi cần đến hàng thế kỷ, những sự việc ấy mới nổi bật lên trong ánh sáng…”.
Triết gia Nietzsche sống mười năm cuối đời trong tình trạng mất trí. Ông hoàn toàn không hay biết về những thành công và danh tiếng ngày càng tăng do các tác phẩm ông để lại. Nhà văn người Nga Dostoievski phải một thời gian dài sau khi mất mới được đặt vào đúng vị trí lịch sử. Nhà dân chủ đầu tiên Việt Nam - Phan Châu Trinh cũng không là ngoại lệ. Phải chăng những vĩ nhân đều chở trong mình sứ mệnh đặc biệt của thời đại? Và bởi vì thế mà họ luôn là kẻ lữ hành cô độc?

Xuân Anh (tổng hợp)